Bộ Tài chính đề xuất tiếp tục ân hạn thuế 275 ngày nhưng có điều kiện
Theo
chương trình kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII, ngày 20/11 tới, Quốc hội sẽ
biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế.
Nhằm đi tới thống nhất một số điểm còn có ý kiến khác nhau của dự án Luật, đầu
tuần trước, Bộ Tài chính đã tổ chức cuộc họp với đại diện của 5 hiệp hội ngành
hàng, doanh nghiệp( dệt may; da giày; thủy sản; gỗ; mỹ nghệ và bông; vải sợi).
Tham dự cuộc họp còn có đại diện của
Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội, đại diện Văn phòng Chính phủ và một
số bộ, ngành như Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Phí bảo lãnh thấp ở mức ảnh hưởng không lớn đến sản xuất
kinh doanh của DN
Tại
cuộc họp, đại diện các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp đã nêu những ý kiến
băn khoăn về việc yêu cầu phải có bảo lãnh của các tổ chức tín dụng như trong
dự thảo Luật sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp, chi phí bảo lãnh lớn, thủ tục
bảo lãnh phức tạp, ảnh hưởng đến hạn mức tín dụng của DN. Do đó các ý kiến đề
nghị cân nhắc trước mắt chưa cần thay đổi, thay vào đó nên có biện pháp chế tài
mạnh đối với doanh nghiệp nợ thuế, hoặc trốn thuế xử lý nghiêm đối với những
doanh nghiệp vi phạm.
Trước
những băn khoăn của đại diện các tổ chức, doanh nghiệp, các cơ quan chức năng
của Bộ Tài chính đã phân tích, giải thích cụ thể. Bộ Tài chính cho biết, theo
quy định tại khoản 20 Điều 5 Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) nguyên liệu, vật
tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị
gia tăng mà chỉ phải nộp thuế nhập khẩu. Do đó, doanh nghiệp chỉ phải bảo lãnh
thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, để đảm bảo công bằng với việc mua hàng hóa
trong nước để SXHXK (đã có thuế GTGT, được hoàn khi hàng hóa thực xuất khẩu),
việc yêu cầu bảo lãnh thuế nhập khẩu trong thời gian ân hạn đối với thuế nhập
khẩu của hàng hóa để SXHXK theo thông lệ quốc tế là cần thiết.
Về
mức phí bảo lãnh, số liệu tổng hợp từ các ngân hàng như Vietcombank, BIDV,
Vietinbank, Agribank... cho thấy, mức phí bảo lãnh hiện hành thống nhất ở mức
0,05%/tháng (mức thấp nhất nếu có ký quỹ bằng tiền mặt hoặc có chứng chỉ tiền
gửi) và 0,29%/tháng (mức cao nhất nếu không có tài sản thế chấp). Với mức phí
bảo lãnh này, căn cứ vào tình hình thực tế, mức độ ảnh hưởng tính trên kim
ngạch chung, theo tính toán của Bộ Tài chính, chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so trị giá
hàng hóa NK để sản xuất hàng XK của doanh nghiệp.
Tăng không đáng kể chi phí giá thành của hàng hóa NK để sản
xuất hàng XK
Cụ
thể, với tổng số tiền thuế nhập khẩu năm 2010 của hàng hóa nhập khẩu để SXHXK là
562 triệu USD, tương đương 11.812 tỷ đồng, thời gian cần thiết để bảo lãnh thực
tế bình quân khoảng 90 ngày (theo số liệu thống kê hải quan về thời gian nhập
khẩu để SXHXK), mức phí bảo lãnh 0,05%/tháng thì số tiền chi phí bảo lãnh là
17,718 tỷ đồng, làm chi phí giá thành nguyên liệu để SXHXK tăng là 0,015%
(17,718 tỷ đồng/121.275 tỷ đồng - tương đương 5,755 triệu USD) trên kim ngạch
có thuế; với mức phí bảo lãnh cao nhất là 0,29%/tháng, số tiền phí bảo lãnh là
102,764 tỷ đồng, làm chi phí nguyên liệu nhập khẩu tăng 0,085%.
Trường
hợp tính cho thời gian bảo lãnh 275 ngày, phí bảo lãnh 0,05%/tháng, thì tiền
phí bảo lãnh là 53,154 tỷ đồng (tương đương khoảng 2,55 triệu USD), làm tăng
chi phí giá thành nguyên liệu nhập khẩu là 0,044%; phí bảo lãnh 0,29%/tháng thì
tiền phí bảo lãnh là 308,293 tỷ đồng (tương đương 14,8 triệu USD), làm tăng chi
phí giá thành nguyên liệu nhập khẩu 0,25%.
Tương
tự cách tính như vậy, với tổng số tiền thuế nhập khẩu năm 2011 của hàng hóa
nhập khẩu để SXHXK 952,3 triệu USD, tương đương 19.808 tỷ đồng, trường hợp tính
90 ngày, việc bảo lãnh sẽ làm chi phí giá thành nguyên liệu để SXHXK tăng
0,018% và 0,1%. Còn tính cho thời gian bảo lãnh 275 ngày làm tăng chi phí giá
thành nguyên liệu nhập khẩu là 0,054% và 0,311%. 9 tháng năm 2012, với tổng số
tiền thuế nhập khẩu là 775 triệu USD, tương đương 16.124 tỷ đồng, thời gian
tính bảo lãnh 90 ngày, sẽ làm tăng chi phí giá thành nguyên liệu nhập
khẩu là 0,025% và khoảng 0,14%. Trường hợp tính cho thời gian bảo lãnh 275
ngày, phí bảo lãnh 0,05%/tháng, thì tiền phí bảo lãnh là 72,558 tỷ đồng (tương
đương 3,48 triệu USD), chi phí giá thành nguyên liệu nhập khẩu sẽ tăng khoảng
là 0,076% và 0,44%.
Nếu
tính riêng cho một số ngành theo kim ngạch nhập khẩu của 9 tháng 2012, theo
tính toán của Bộ Tài chính, ngành dệt may, bông sợi, da giày, tỷ lệ tăng giá
thành cao nhất cũng chỉ vào khoảng 0,0714%. Cụ thể, với kim ngạch nguyên liệu
SXHXK cho cả ba ngành hàng trên là 2,3 tỷ USD, mức thuế suất nhập khẩu (NK)
bình quân MFN gia quyền của năm 2012 là 8,21%: mức phí thấp nhất 0,05%, tiền
phí bảo lãnh là: 6 tỷ đồng (tương đương gần 288 nghìn USD), tỷ lệ tăng giá
thành là 0,0123%. Với mức phí cao nhất 0,29%, tiền phí bảo lãnh là: 35 tỷ đồng
(tương đương 1,669.5 triệu USD); tỷ lệ tăng giá thành là 0,0714%.
Tương
tự như vậy, tỷ lệ tăng giá thành của ngành thủy sản cũng chỉ ở mức là
0,0203% và 0,1177%; của ngành gỗ, mỹ nghệ là 0,0031% và 0,0180%. Mặt khác, theo
dự thảo Luật, trong thời gian bảo lãnh nguyên liệu sản xuất xuất khẩu không
phải trả lãi chậm nộp, nên doanh nghiệp đã được hưởng lợi từ việc sử dụng luồng
tiền thuế thực chất là chậm nộp để đầu tư sản xuất, kinh doanh trong khi nhập
hàng hóa khác phải trả lãi chậm nộp trong thời gian bảo lãnh (0,05%/ngày).
Cho phép ân hạn thuế 275 ngày nhưng có điều kiện
Với
những tính toán rõ ràng, cụ thể, đại diện các hiệp hội DN đã cơ bản thống nhất
nội dung đánh giá tác động của đại diện Bộ Tài chính; đồng thời hiểu rõ việc
bảo lãnh thuế chỉ thực hiện đối với thuế NK của hàng hóa NK để SXHXK, không bao
gồm thuế GTGT hàng NK, nên số liệu tính toán mức độ ảnh hưởng không lớn như các
văn bản kiến nghị trước đó đã gửi đến các cơ quan chức năng.
Bên
cạnh đó, Bộ Tài chính cũng cho biết, tại dự thảo Luật sửa đổi lần này đã giảm
thời gian giải quyết hồ sơ hoàn thuế thuộc đối tượng hoàn trước kiểm tra sau
tại khoản 2 Điều 60 xuống 6 ngày làm việc thay vì 15 ngày, hồ sơ hoàn thuế
thuộc đối tượng kiểm tra trước hoàn thuế sau tại khoản 3 Điều 60 giảm xuống 40
ngày thay vì 60 ngày như hiện hành.
Mặc
dù đã giải trình rõ với những căn cứ, tính toán cụ thể, Bộ Tài chính, các
bộ, ngành liên quan dự họp cũng ghi nhận những kiến nghị của đại diện các hiệp
hội ngành hàng, doanh nghiệp. Trên cơ sở những kiến nghị này, Bộ sẽ đẩy mạnh,
tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhằm hạn chế tối đã hành vi vi phạm của một
bộ phận doanh nghiệp.
Tuy
nhiên, nhằm chia sẻ những khó khăn trước mắt của cộng đồng DN, đồng thời đảm
bảo khắc phục những tồn tại của việc ân hạn thuế gây thất thu ngân sách, Bộ Tài
chính đã đề xuất với Chính phủ kiến nghị Quốc hội điều chỉnh một số quy định
trong dự thảo Luật. Theo đó, DN sản xuất hàng xuất khẩu được ân hạn thuế 275
ngày (không phải bảo lãnh), nhưng phải đáp ứng đủ điều kiện: Một là, có cơ sở
sản xuất trực tiếp xuất khẩu, có quá trình 2 năm kể từ ngày đăng ký tờ khai hải
quan trở về trước không vi phạm pháp luật, không có nợ tiền thuế quá hạn, tiền
chậm nộp, tiền phạt; chấp hành tốt chế độ báo cáo tài chính. Hai là, thực hiện
thanh toán qua ngân hàng.
Các
trường hợp còn lại (không chấp hành tốt pháp luật, không đáp ứng đủ các tiêu
chí trên) thì phải được tổ chức tín dụng bảo lãnh toàn bộ số tiền thuế phải nộp
hoặc phải nộp tiền thuế trước khi được thông quan hoặc giải phóng hàng hóa,...
CÔNG TY CỔ PHẦN MAY XUẤT KHẨU PHAN THIẾT Địa chỉ: 282 Nguyễn Hội – Tp.Phan Thiết – Bình Thuận Điện thoại: 062.3821947 - Email: ptgarment@phanthietgarment.com.vn Website: www.phanthietgarment.com.vn Thiết kế bởi TÍNH THÀNH